Việt Nam là tên gọi của sự kết hợp nòi giống và vị trí địa lý (Việt Nam – người Việt sinh sống ở phương Nam); thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập, tự chủ và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc.
1. Sau khi Gia Long lên ngôi vua năm 1802, ngoài việc ổn định về mặt tổ chức của vương triều; Vua quan tâm hơn cả là đặt quốc hiệu đất nước để khẳng định sự chính thống của một triều đại mới.
Quốc hiệu Việt Nam được công bố có ý nghĩa quan trọng, là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam.
2. Hai tiếng Việt Nam xuất hiện sớm nhất trong lịch sử dân tộc là từ thế kỷ thứ 14, trong bộ sách “Việt Nam thế chí” của Học sĩ viện Hàn lâm Hồ Tông Thốc biên soạn.
Tác phẩm “Việt Nam thế chí” được Hồ Tông Thốc viết khi ông còn làm quan dưới thời vua Trần Nghệ Tông. Tác phẩm tuy đã bị mất, song lời tựa đã được Phan Huy Chú (1782 – 1840) ghi lại trong tác phẩm Văn tịch chí bộ Lịch triều hiến chương loại chí.
Lời tựa đã cho ta biết Việt Nam thế chí chép 18 đời vua Hùng và các đời nhà Triệu; Quan trọng hơn, Hồ Tông Thốc là người đầu tiên đưa ra danh xưng Việt Nam với ý nghĩa là quốc hiệu.
3. Thế kỷ thứ 15, danh xưng Việt Nam một lần nữa được xuất hiện, không chỉ một mà tới 4 lần do “nhà tiên tri số một” Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm nhắc đến.
Lần đầu tiên hai tiếng Việt Nam được Trạng Trình nhắc đến trong tác phẩm “Trình tiên sinh quốc ngữ” hay còn gọi là “Sấm ký”. Đây là tập hợp những dự báo sẽ xảy ra trong tương lai.
Lần thứ hai, danh xưng Việt Nam được nói trong bài thơ chữ Hán “Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh” (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam).
Lần thứ ba, thứ tư Trạng Trình nhắc đến hai tiếng Việt Nam là trong hai bài thơ gửi hai người bạn thân.
Mặc dù sống trước 5 thế kỷ, song những lời “Sấm ký” của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm đã dự báo nước ta sau này sẽ lấy quốc hiệu Việt Nam làm tên gọi ?!
4. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 – 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh…
Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc).
Dưới triều đại Tây Sơn, mặc dù thời gian tồn tại rất ngắn, nhưng lịch sử đã ghi nhận những đóng góp công lao trong việc thống nhất đất nước, giáo dục, văn hóa…
Bên cạnh đó, theo một số tài liệu có chép đời vua Quang Trung đã cho đặt quốc hiệu là Việt Nam năm Nhâm Tý (1792).
Trẫm nghĩ: Xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ rõ sự đổi mới,… Từ trước đã có Văn Lang, Vạn Xuân nhưng còn quê kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt, nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ.
Từ đời nhà Lý về sau quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước đặt làm hiệu nước. Tuy vậy, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính dựng nước vậy.
Trẫm nối theo nghiệp cũ, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, tuần xét núi sông, nên đặt tên tốt để truyền lâu dài. Nay ban đổi tên nước là Việt Nam
Như vậy, căn cứ vào các tư liệu, tư tịch cổ đã chứng minh rằng hai tiếng Việt Nam đã có từ xưa (từ thế kỷ 14) và (có thể) chính thức trở thành quốc hiệu nước ta vào năm Nhâm Tý (1792) triều Tây Sơn
6. Từ giữa thế kỷ XIX, nước ta bị ách đô hộ của thực dân Pháp; bọn chúng thường gọi nhân dân ta là “dân An Nam” để chỉ sự miệt thị, khinh bỉ và coi thường.
Hai tiếng Việt Nam chưa xuất hiện chính thức, song đã được các nhà sử học, các chí sĩ yêu nước đặt tên cho nhiều tổ chức chính trị, và nhiều tác phẩm với mục tiêu đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập cho dân tộc:
Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công; ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì quốc hiệu Việt Nam mới chính thức được công nhận.
7. Ngày 2/7/1976 kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam thống nhất (khóa VI, 1976 – 1981) đã quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự tiếp nối của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) mà tiền thân là Nhà nước Văn Lang thời lập quốc. Quốc hiệu của nước Việt Nam thống nhất, gắn liền với niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, nay đã “sánh vai với cường quốc năm châu” như lời mong mỏi của Lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại.
Từ đây, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.