Con đường phát triển của dân tộc Việt Nam đến đầu thế kỷ XX đánh dấu một bước chuyển quan trọng, với sự ra đời của Đảng CSVN (đầu năm 1930), đưa dân tộc phát triển theo một con đường mới đã được xác định rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Từ khi ra đời, Đảng CSVN đã lãnh đạo dân tộc thực hiện mục tiêu, phương hướng đã chọn lựa, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đã xóa bỏ chế độ phong kiến, thuộc địa, lập nên nước Việt Nam DCCH, mở ra thời đại vẻ vang của lịch sử dân tộc – thời đại độc lập, tự do và từng bước quá độ lên CNXH. Tiếp đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hoàn thành sự nghiệp bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc ở hai đầu biên giới. Hiện nay, sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, VN đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị – xã hội ổn định, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế được khẳng định. Đó là hiện thực lịch sử đang diễn ra ở VN.
Tuy nhiên, thời gian qua trên một số diễn đàn, nhất là trên các trang mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta. Các quan điểm sai trái, thù địch này thường cho rằng, sự lựa chọn con đường bỏ qua chế độ TBCN tiến thẳng lên CNXH ở VN là sai lầm, đẻ non, không đi theo quy luật, đang đổi mới nửa vời, kinh tế thị trường định hướng XHCN là “đầu Ngô mình Sở” – CNXH chỉ là hình thức, còn bản chất đã ngả theo con đường TBCN. Đây là những luận điệu nhằm cố tình tìm cách phủ nhận những thành quả của sự nghiệp đổi mới và quá trình phát triển nhận thức về CNXH ở VN.
Như chúng ta biết, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mở, có giá trị phương pháp luận. V.I.Lênin đã cho rằng, “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. Đồng thời, V.I.Lênin cũng căn dặn: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
Có những khoảng thời gian chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về CNXH, đặc biệt là giai đoạn trước đổi mới, hệ quả là đất nước rơi vào khủng hoảng về kinh tế – xã hội trầm trọng. Xuất phát từ thực tiễn đó, trên cơ sở nhận thức lại CNXH và con đường quá độ lên CNXH, Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã hoạch định đường lối đổi mới.
Đổi mới không có nghĩa là Đảng ta từ bỏ con đường đi lên CNXH, mà đổi mới chính là để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về CNXH ở VN. Giai đoạn trước đổi mới, nếu quan niệm kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền là sản phẩm của CNTB, đối lập một cách trừu tượng CNXH với CNTB, thì đổi mới là để nhận thức lại đúng đắn hơn, coi kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền là sản phẩm phát triển của nhân loại đạt được trong giai đoạn TBCN, cần phải kế thừa yếu tố hợp lý, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng CNXH ở VN.
Nên nhớ rằng, trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác nhấn mạnh: “Đặc trưng của CNCS không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”; “CNCS không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. CNCS chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH và kể cả trong CNXH việc tồn tại kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân là tất yếu. Sở hữu tư nhân ở đây với tư cách là quyền chiếm hữu sản phẩm do chính lao động tạo ra, chứ không phải sở hữu với tư cách là một chế độ chính trị – xã hội – dùng quyền sở hữu đó để đi bóc lột sức lao động của người khác làm cơ sở tồn tại của chế độ.
Vì vậy, “bỏ qua chế độ TBCN” có nghĩa là chỉ bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, hay nói cách khác là bỏ qua chế độ chính trị TBCN, còn tất cả những thành tựu về kinh tế, khoa học-kỹ thuật, công nghệ, khoa học quản lý nhân loại đạt được dưới CNTB phải kế thừa, vận dụng trong quá trình xây dựng CNXH ở VN. Vì vậy, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN là hoàn toàn đúng đắn, chứ không phải là ngả theo con đường TBCN như sự xuyên tạc của các quan điểm sai trái, thù địch.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH “là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng CSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”, trong đó, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để đi lên CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Vấn đề được đặt ra là không chỉ dừng lại ở việc xác định mục tiêu, lý tưởng, mà điều quan trọng là phải tìm ra giải pháp, bước đi, cách làm khoa học, sáng tạo nhằm thực hiện thành công mục tiêu, lý tưởng đã xác định. Có như vậy, CNXH mới được xây dựng trên tinh thần của đổi mới, phản ánh đúng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và yêu cầu thực tiễn của đất nước.