Cựu chiến binh Lê Văn Nam bảo thế hệ của ông là thế hệ “Ăn cơm bắc, đánh giặc nam”. Bởi, ngày đó, vào những đêm không trăng, những toán đặc công hải quân (từ 12 đến 25 người) của Lữ đoàn 126 từ đặc khu Vĩnh Linh vượt sông Bến Hải để vào vùng địch.
“Chúng tôi chỉ mặc quần đùi và đi bộ, trực chỉ cảng Cửa Việt, sông Hiếu mà đi. Mỗi người phải mang trên vai 10 đến 15 kg thuốc nổ…Thời gian mỗi trận đều rất gấp gáp vì cả đi cả đánh chỉ được diễn ra trong 1 đêm”, ông Nam nhớ lại.
Cũng theo ông Nam vào thời điểm này, có 2 cách đánh phổ biến mà các đặc công hải quân áp dụng đó là thả thủy lôi và đánh áp mạn (gài mìn vào mạn tàu). Mục tiêu mà các ông hướng đến là các tàu sắt của Mỹ ngụy neo dọc sông Hiếu ra tới Cửa Việt, đặc biệt là các tàu hàng – “dạ dày” của địch.
Cùng với sự sáng tạo trong thực tế chiến trường, từ 1966 đến 1973, tại chiến trường Cửa Việt – Đông Hà, những chiến sĩ đặc công Hải quân của Lữ đoàn 126 đã chiến đấu 300 trận, đánh chìm 339 tàu, phá hủy hàng vạn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Trong đó có những tàu có trọng tải tới 15.000 tấn và có những trận ly kỳ được ví là “trận Bạch Đằng trên sông Hiếu”.
“Chúng tôi hoạt động rất bí mật nên quân địch vào thời điểm đó không biết phiên hiệu của lữ đoàn. Chúng chỉ gọi nôm na chúng tôi là “Đội quân đội mũ đồng, đi chân đất, ăn thịt hộp, vũ khí 3 thân…”, ông Nam nói.
Một trong số các bài học là luôn tự nhủ lực lượng đặc công hải quân phải làm được những việc mà người thường không làm được. Có thế mới vượt lên chính mình, đạt 5 giỏi: giỏi bơi lội, giỏi võ, giỏi bắn súng, giỏi tác chiến, chịu đựng giỏi…Mục tiêu chiến đấu của đặc công hải quân ngày nay là biển sâu, biển xa, đảo xa, đối tượng tác chiến cũng thay đổi nên những yêu cầu này là vừa đủ để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.