Bằng khả năng cảm hóa đặc biệt và uy tín của mình, Hồ Chủ tịch đã thu hút và thuyết phục rất nhiều những nhà chí sĩ yêu nước, nhân sĩ trí thức của xã hội cũ hưởng ứng, tham gia kháng chiến và hết lòng phụng sự Tổ quốc.
Sau khi giành được độc lập, đất nước ta ở trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn: thù trong giặc ngoài, tình hình kinh tế xã hội khủng hoảng vì đói rét, dốt nát, dịch bệnh, thiên tai. Tuy Chính phủ lâm thời đã được thành lập nhưng vẫn cần nhiều người có tâm, có tài để phụng sự Tổ quốc. Trong bài Nhân tài và kiến quốc đăng trên báo Cứu quốc ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Trên thực tế, bằng khả năng cảm hóa đặc biệt và uy tín của mình, Bác Hồ đã thu hút và thuyết phục rất nhiều những nhà chí sĩ yêu nước, nhân sĩ trí thức của xã hội cũ hưởng ứng, tham gia kháng chiến và hết lòng phụng sự Tổ quốc.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng từng đậu giải Nguyên khoa Canh Tý rồi đỗ Tiến sĩ, nổi danh là một nhà đại khoa bảng nhưng cụ không ra làm quan mà cùng các nhà chí sĩ lừng danh như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp mưu sự nghiệp cứu nước, vì vậy cụ bị Pháp đày ra Côn Đảo 13 năm. Sau khi ra tù, cụ lập ra báo Tiếng Dân, rồi được bầu làm Chủ tịch Viện dân biểu Trung kỳ. Khi cách mạng giành chính quyền thành công, quan điểm chính trị của cụ không có gì thay đổi và tuy lúc ấy cụ đã 70 tuổi nhưng uy tín và tinh thần yêu nước của cụ vẫn có một ảnh hưởng rất lớn trong xã hội.
Ngay từ cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi hai bức điện mời cụ Huỳnh ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, lần đầu cụ từ chối vì tuổi cao sức yếu nhưng lần hai thì cụ đồng ý ra Hà Nội gặp Bác. Ngày 24/2/1946, Ủy ban Hành chính Trung bộ cho xe qua tòa báo Tiếng Dân đưa cụ Huỳnh ra Thủ đô. Buổi gặp đầu tiên của hai tấm lòng yêu nước, thương dân thật cảm động và chân thành. Bác Hồ bố trí cho cụ Huỳnh ở ngay trên tầng lầu Bắc Bộ phủ. Hai cụ hay ăn sáng với nhau, thường là xôi và bánh tráng. Hồ Chủ tịch nói với cụ: “Việc mời cụ ra nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ là ý kiến chung của tất cả các đảng phái, chứ không phải ý kiến riêng của cụ Nguyễn Hải Thần và tôi, vì cụ ở lại trong nước, cụ biết rõ trình độ tiến bộ của đồng bào ba kỳ, đồng thời đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm cụ”. Cụ Huỳnh trả lời: “Tôi ra đây cốt là gặp cụ, chứ lúc này là lúc cần tăng gia sản xuất mà tôi không biết cầm cày, cầm cuốc; lại cần kháng chiến mà tôi lại không mang súng nổi. Cụ nên kiếm người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn”, nhưng Bác vẫn kiên trì thuyết phục một cách hợp lý thuận tình nên cụ Huỳnh vui vẻ nhận lời. Ngày 2/3/1946, tại cuộc họp đầu tiên của Quốc hội, Bác đã giới thiệu cụ Huỳnh nhận trọng trách nắm Bộ Nội vụ là một người đạo đức danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết. Sau đó, cụ Huỳnh lại được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, cụ không giấu được những cảm xúc sâu xa qua câu đối:
“Sướng ơi là sướng, thân nô mà làm chủ nhân ông
Vui vui là vui, đổi quyền vua mà làm dân quốc mới!”
Từ ấy, Bác và cụ Huỳnh thật sự như hai người bạn tri kỷ, cùng tâm sự và thường xuyên thăm nom nhau. Mỗi khi có món gì ngon, Bác cũng mời cụ Huỳnh cùng thưởng thức: khi lọ tương Nam Đàn, lúc chai mắm tép Thái Bình. Trong một buổi tâm tình, cụ Huỳnh nhắc khéo chuyện riêng của Bác bằng hai câu thơ:
“Năm mươi sáu tuổi vẫn chưa già
Cụ ông thấy, cụ bà không?”
Nhưng lúc ấy Bác chỉ cười không nói gì.
Sau khi Hiệp định sơ bộ 6-3 được ký kết, bọn phản động tung tin đồn nhảm làm giảm uy tín Bác và bôi xấu Chính phủ, cụ Huỳnh đã phát biểu rằng: “Hội đồng Chính phủ không bán nước! Tôi xin tuyên bố vắn tắt với anh em đó chẳng qua là một nước cờ của Hồ Chủ tịch với cả nước Pháp lẫn Tưởng Giới Thạch. Hồ Chủ tịch là một tay cao cờ. Tôi chắc chắn và anh em cứ đinh ninh rồi đây thế nào rồi mình cũng thắng thế”.
Trước khi rời Hà Nội sang thăm Pháp, Bác đã ủy quyền cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước. Sáng 31/5.1946, trước khi lên máy bay, Bác đã nắm tay cụ Huỳnh nói: “Mong cụ dĩ bất biến ứng vạn biến!”. Trong thời gian Bác đi vắng, cụ Huỳnh đã viết một bài thơ về Người như sau:
“Tung hoành bể Sở với non Ngô
Đảm lược ai hơn Chủ tịch Hồ
Mưa gió dãi dầu bao tuế nguyệt
Nước non gây dựng nổi cơ đồ
Sen kia chẳng ngại bùn hôi lấm
Tùng nọ bao phen ngọn gió xô
Khắp cả ba kỳ đều tín nhiệm
Rộn ràng muôn miệng tiếng hoan hô”.
Cụ Huỳnh đã làm rất tốt trọng trách mà Bác đã tin tưởng giao lại và cụ càng cương quyết giao lại và cụ càng cương quyết với lũ giặc thân Tưởng. Sau vụ án phố Ôn Như Hầu, hội Việt Nam Quốc dân Đảng kéo đến Bắc Bộ phủ xin gặp cụ để thanh minh cho đường lối cách mạng của mình, cụ Huỳnh đã ra cầu thang cầm batoong chỉ thẳng vào mặt chúng quát to: “Đồ kẻ cướp! Đồ vô lại! Quốc gia dân tộc gì chúng mày!”.
Trong mấy tháng ở Pháp, Bác thường gửi điện thăm hỏi tình hình ở nhà và sức khỏe cụ Huỳnh. Trong một bức điện riêng, Bác đã trả lời câu hỏi mà cụ đưa ra bằng bài thơ sau:
“Nghĩ chẳng ra thơ để trả lời
Nhớ ơn cụ lắm cụ Huỳnh ơi
Non sông một mối chung nhau gánh
Độc lập xong rồi cưới vợ thôi”.
Cuộc trường kỳ kháng chiến bùng nổ, đầu năm 1947, cụ Huỳnh đi kinh lý miền Trung. Về thăm quê hương Tiên Phước, cụ tâm sự với bà con: “Tôi đã vào loại sáng nhưng Cụ Hồ lại sáng hơn tôi nhiều. Cụ Hồ có những người giúp việc thông minh lắm, giỏi lắm, tin tưởng lắm. Cụ Hồ rất vĩ đại, dưới có đội ngũ giúp việc tài năng, nhất định sẽ đưa dân tộc ta đến tòan thắng”.
Đầu tháng 4/1947, trong một buổi nói chuyện với các thân hào, nhân sĩ tại Quảng Nam, nhiều người hỏi cụ Huỳnh về ông Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh về ông Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh trả lời rằng: “Ông Hồ không phải như nhiều người khác mượn hai tiếng cách mạng để rồi làm giàu hoặc làm quan to như các ông tưởng đâu. Ông Hồ không đồng xu dính túi. Nói về bằng cấp thì ông Hồ không là Tiến sĩ, Phó bảng gì cả. Nhưng nói về tri thức và sự nghiệp cách mạng thì chắc chắn lớp chúng ta cũng như lớp trước chúng ta không ai bì kịp”.
Giữa tháng 4/1947, cụ Huỳnh ốm nặng ở Quảng Ngãi. Trên giường bệnh, cụ đọc cho thư ký chép bức thư riêng gửi Bác: “Kính gửi Hồ Chủ tịch. Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước ta đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đường vinh quang hạnh phúc. Chào vĩnh quyết”.
Vô cùng thương tiếc cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bác đã viết thư gửi đồng bào toàn quốc sau ngày cụ tạ thế: “Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân tộc được tự do, nước được độc lập… Đồng bào Việt Nam quyết theo gương kiên quyết của cụ. Con Rồng cháu Tiên quyết không làm nô lệ. Tinh thần kháng chiến của cụ Huỳnh sống mãi!”./.