Những chiến tích anh hùng của thiên tài quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được cả thế giới công nhận. Thế nhưng, ít ai biết rằng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được mệnh danh “Đại tướng đánh thắng nhiều đại tướng nhất”. Cũng điểm lại những Đại tướng của Pháp và Mỹ đã thất bại dưới người anh dùng của dân tộc Việt Nam.Trong cuộc đời cầm quân của mình, từ 1946 đến 1954, Đại tướng võ Nguyên Giáp đã lần lượt đánh bại 7 Đại tướng Pháp.
Đầu tiên là tướng 4 sao Philippe leclerc nhậm chức tháng 8-1945, đến tháng 6-1946 bị triệu hồi vì thất bại trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh. Sau đó tướng 4 sao Etienne Valluy sang thay, đến tháng 5-1948 lại bị triệu hồi vì thất bại trong Thu Đông 1947.
Đến lượt tướng 4 sao C.Blaijat sang thay, nhưng được một năm, đến tháng 9-1949 lại phải thay vì không thực hiện được chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Vịêt”.
Tướng 4 sao M.Corgente sang thay lại bị một đòn đau trong chiến dịch Biên giới, tháng 12-1950 được thay bằng tướng Delattre De Tassigny, đây là vị tướng 5 sao, người tài nhất của nước Pháp, nhưng cũng chỉ được một năm vì bị thua trận ở khắp nơi, nhất là việc xây dựng hàng nghìn lô cốt boong ke để co về cố thủ.
Tướng Raul Salan sang thay, tướng 4 sao này trụ được từ tháng 12-1951 đến tháng 5-1953 lại bị thay vì thua trong chiến dịch Hoà bình và các mặt trận ở toàn Đông Dương.
Cuối cùng là tướng 4 sao Henri Navarre, ông này bị thua đậm nhất ở khắp các chiến trường Đông Dương mà đau nhất là ở Điện Biên Phủ, ông từng thách Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh Điện Biên, nhưng cuối cùng phải dùng máy bay Mỹ trực tiếp cứu viện tại Điện Biên Phủ mà cũng không cứu vãn được.
Sau khi bị thua ở đây, tháng 6-1954, tướng 5 sao Ely sang thay. Ông này may mắn, vì một tháng sau Hiệp định Giơnevơ đã ký, nên Ely chỉ làm nhiệm vụ thu quân, cuốn cờ về nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1955 đến 1960, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, họ đã phải thay hai đại sứ Mỹ ở miền Nam. Từ 1961 đến 1964, bị thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ – tướng Hakin phải triệu hồi. Từ 1965 đến 1968, Mỹ lại tiếp tục thua trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Tổng tư lệnh Westmoreland bị cách chức.
Từ 1965 đến 1975, Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, thời gian này, Tổng tư lệnh C.Abramsđược thay bằng tướng F.C.Weyand, ông này là người cuốn cờ để rút quân về Mỹ. Như vậy, Mỹ phải 4 lần thay Tổng tư lệnh.
Ngoài ra, quân đội Mỹ còn bị chết 12 tướng, bị thương 8 tướng khác trong chiến tranh Việt Nam.