Anh hùng Núp sinh năm 1914, dân tộc Ba Na, quê ở thôn Sê Tơ, xã Tơ Tung, huyện KBang, tỉnh Gia Lai. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, thôn đội trưởng du kích.
Đồng chí Núp mồ côi cha mẹ từ khi 10 tuổi. Năm 1935, quân Pháp về lùng bắt phu, dân làng lánh hết vào rừng, một mình Núp dũng cảm ở lại, dùng nỏ bắn chết 1 tên Pháp. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, trong lúc lộn xộn, Núp lấy được 1 khẩu súng và 10 hòm đạn. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Núp tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền và hoạt động chiến đấu địa phương đến năm 1954. Suốt 3 năm từ 1947 đến 1949, dù mất liên lạc với trên nhưng Núp vẫn tin tưởng ở thắng lợi. Nắm vững phương châm “trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh”, Núp đã lãnh đạo nhân dân dời làng 5 lần để vừa sản xuất, vừa xây dựng làng chiến đấu. Núp cùng dân bản tổ chức du kích diệt được 80 tên giặc. Năm 1950, địch ra sức càn quét, bình định, khủng bố vùng du kích Tây Nguyên gắt gao. Đồng chí vẫn kiên trì vận động dân làng ra sức rào làng chiến đấu, sáng tạo nhiều cách đánh, dùng chông mìn, cạm bẫy, tên nỏ để diệt địch, bảo vệ nương rẫy, dân làng. Đặc biệt trong trận đánh địch càn tháng 10 năm 1952, liên tục 7 ngày liền, Núp chỉ huy trung đội du kích ngoan cường luồn rừng chiến đấu với cả trung đoàn địch. Diệt được nhiều tên, phá vỡ cuộc càn của chúng. Núp còn đi đầu trong sản xuất, chiến đấu giữ làng, bài trừ mê tín dị đoan, đoàn kết với dân bản, là lá cờ đầu trong phong trào thi đua diệt giặc cứu nước của đồng bào Tây Nguyên.
Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, được Bác Hồ tặng một áo lụa và Huy hiệu của Người.
Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Núp được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sưu tầm